09.
Chớp mắt đến cuối năm. Từ Ba Lăng, lão gia và phu nhân gửi thư về bảo trời đông lạnh, đường xá xa xôi, mà lão gia đâu có chiếu chỉ để về kinh nên cứ ở lại đó. Thư viện Nhị thiếu gia đang học cũng cho nghỉ hai mươi ngày.
Hôm Nhị thiếu gia trở về, ngoài trời lất phất tuyết. Kiếm Như loay hoay mang hành lý giúp cậu. Từ sớm, ta đã chuẩn bị thịt dê, nổi lửa ủ ấm bình rượu, chỉ chờ cậu sắp xếp nghỉ ngơi xong là dọn lên.
Đại thiếu gia và Nhị thiếu gia lâu ngày gặp lại, chắc muốn tỉ tê chuyện trò, nên ta với Kiếm Như tự biết ý không ngồi cùng bàn. Chờ qua một canh giờ ta vào dọn thì Nhị thiếu gia đã say khướt, còn Đại thiếu gia trông vẫn tỉnh, chỉ hơi ửng đỏ mặt.
Kiếm Như đỡ Nhị thiếu gia về phòng, ta thu dọn bát đũa, chần chừ một lát rồi hỏi Đại thiếu gia:
“Dạ, nô tỳ rửa bát xong, có cần sang hầu hạ không ạ?”
Hắn đáp:
“Hầu hạ gì?”
“Hầu hạ… Nhị thiếu gia.”
“Hầu hạ hắn chuyện gì?”
“Chải đầu, tắm rửa…”
Đại thiếu gia im lặng, vẻ mặt vẫn tỉnh nhưng không mấy vui, chân mày cau lại, thoáng cười nhạt:
“Ngươi muốn sang lắm à?”
Dĩ nhiên là ta chẳng muốn. Nhỡ sang đó lại bị đuổi đến dãy phòng cũ, một mình sợ chết khiếp. Nhưng Nhị thiếu gia cũng là chủ tử, đâu thể thiếu người hầu. Trước đây Thôi Cửu lo việc ấy, nay hắn theo phu nhân đi Ba Lăng mất rồi. Kiếm Như là người kề cận Đại thiếu gia, nên ta nghĩ chỉ mình ta xung phong.
Ta bối rối:
“Tất cả vẫn do chủ tử sắp đặt…”
Đại thiếu gia mím môi:
“Không cần. Ta đã dặn Kiếm Như rồi.”
“…Vậy ạ.”
“Ngươi—!”
Nhìn ta đáp “Vậy ạ” xong, hắn lại nổi cáu. Hình như từ “Vâng” hay “Được ạ” của ta đều khiến hắn không vui. Ta cúi đầu, đổi giọng:
“Dạ, nô tỳ biết rồi.”
Hắn lườm ta, rồi toan đứng dậy về phòng. Thương thế của Đại thiếu gia đã đỡ hơn nhiều, không cần nạng nữa, chỉ là vẫn đi hơi khập khiễng. Không hiểu do rượu hay đứng lên quá nhanh, hắn lảo đảo chút. Ta hốt hoảng vươn tay đỡ, hắn đột ngột khựng lại, chân mày nhíu. Ta nhìn xuống, phát hiện ống tay áo mình đã co lên, lộ cả nửa cánh tay.
Vội vã kéo tay áo xuống, ta luống cuống không biết làm sao. Nửa năm nay, ta lớn nhanh, quần áo phát khi mới vào phủ giờ chật cả. Cái áo bông hôm nay cũng là lục tạm trong kho, không phải may đo, phần thân cứ bó chặt, giơ tay mạnh một cái là lộ cổ tay ngay.
Đại thiếu gia nhìn xuống, lấy trong ngực ra túi bạc, đưa cho ta, bảo cầm may hai bộ y phục mới.
Ta ngại, không dám nhận tiền riêng của hắn. Hắn đành nói đây là tiền thưởng Tết của phủ.
Các nhà giàu thường phát thưởng cho người hầu dịp cuối năm, nhưng túi bạc của hắn có vẻ nặng quá, khiến ta phân vân.
“Hằng năm đều thế ạ? Kiếm Như ca cũng có chứ?”
Đại thiếu gia thoáng lúng túng:
“Ừ, tất nhiên.”
Nghe vậy ta mới yên tâm, kính cẩn nhận lấy, định dành dụm luôn.
Năm nay, câu đối xuân là do chính Đại thiếu gia viết. Hắn viết: “Hoa hảo nguyệt viên nhân thọ, thời hòa tuế lạc niên phong.”
Ngày ngày ở bên, ta luôn thấy Đại thiếu gia như ngọc ôn nhuận, chuyện gì cũng tốt, chỉ là đôi khi thiếu chút sức sống. Giờ hắn hơi khom người, xắn tay áo, đặt giấy đỏ viền nhũ vàng lên án thư, ghi lên đó ước mong năm mới an yên. Thoáng chốc, ta nhận ra Đại thiếu gia cũng chẳng cách ta đến mức xa vời.
Viết xong, hắn vẫy tay gọi ta lại, bảo ta cũng thử viết đôi câu đối. Ta nào biết câu đối gì.
Hắn chống cằm, cười nhạt:
“Dạy ngươi nửa năm rồi, một bộ câu đối cũng không viết nổi. Tiểu Thập Lục, hay ngươi lười học sau lưng ta đấy?”
Thực ra ta đâu lười, chỉ giấu vụ bện trâm thôi. Nghĩ đến đây mà thấy chột dạ, mặt nóng bừng. Cầm bút, ta chậm chạp viết: “Tuế tuế bình an tiết, niên niên như ý xuân.”
Mong năm nào cũng bình an như này thì tốt.
Sang mùng Năm, Nhị thiếu gia muốn ra phố cưỡi ngựa. Không hiểu sao lại đòi ta đi cùng.
Phủ vốn có mấy con ngựa, sau biến cố Ngụy gia đã bán bớt, giờ chỉ còn một con do Kiếm Như chăm.
Nhị thiếu gia thong thả cưỡi, may trên phố đông người, hắn không thể phi nước đại nên ta gắng chạy theo được. Rồi có lẽ hắn thấy nơi đông chật chội, chẳng cưỡi ngựa thoải mái, đành xuống dắt bộ song hành với ta. Lúc ấy ta mới hết thở hổn hển.
Hai người thực ra không thân lắm, chen giữa phố phường náo nhiệt mà lại im ắng, thật gượng gạo. Có lẽ Nhị thiếu gia thấy vậy, đi một lúc liền bắt chuyện.
“Thập Lục, quê ngươi ở đâu?”
“Thôn Bạch Vân, trấn Thanh Thạch ạ.”
“Chưa nghe bao giờ, xa không?”
“Cách kinh thành tám mươi dặm.”
“Tám mươi dặm á… chạy đi chạy về một ngày là xong.”
Hình như hắn muốn kéo ta cùng về thôn Bạch Vân. Ta giật mình. Quãng đường trăm dặm đâu phải nói đi là đi, thêm nữa ta đâu nhớ rõ lộ trình, ngày đó cùng người môi giới đi xe bò tới Kinh, giờ quay về chắc phải dò đường suốt.
Nhận ra ta tỏ ý chẳng thiết, hắn đùng đùng đá một viên sỏi:
“Ta định đưa ngươi về nhà mà ngươi không chịu, tiểu nha đầu này chẳng thú vị gì.”
Ta đành cười lấy lòng:
“Thiếu gia hiếm khi về kinh, thay vì về quê với nô tỳ, sao ngài không vui chơi cùng bạn hữu?”
Hắn cười khẩy:
“Bọn họ hả, từ khi đại ca gặp chuyện, hoặc tránh né, hoặc khách sáo giữ kẽ, sợ một câu lỡ lời thì thêm khó xử. Bản thiếu gia chán nhìn mặt chúng nó.”
Nghe câu ấy, ta sững sờ. Ngụy gia vốn xuất thân thư hương, lão gia phu nhân đều đoan trang hiền hậu, Đại thiếu gia thì lịch thiệp, còn Nhị thiếu gia đây… sao lại có mặt gai góc thế?
Ta lén ngắm hắn. Huynh đệ hai người bảo giống chẳng giống, bảo khác vẫn có chỗ tương đồng. Đại thiếu gia trầm tĩnh ôn hòa, Nhị thiếu gia lại có nét sắc sảo, dáng người mảnh mai, tóc cột cao, thoạt nhìn đúng là một tiểu lang quân đẹp mắt.
Ta đề nghị:
“Nếu ngài không thấy thích, sao không về rủ Kiếm Như cưỡi ngựa, hắn cũng giỏi cưỡi lắm mà.”
Hắn hờ hững:
“Kiếm Như là nam, đi cùng nam nhân thì có gì hay? Dù ngươi nhạt nhẽo thật, ít ra còn là cô nương.”
Ta: “…”
Nói chuyện thẳng thừng làm ta ngượng chín. Huống hồ, ta là cô nương nhưng hắn nào cho ta cưỡi chung, rõ ràng là bắt ta chạy bộ đuổi theo bở hơi tai.
Nhìn mặt ta lúc đỏ lúc tái, hắn cười lớn, nắm dây cương bảo phía trước đông vui, nghe nói có xiếc diễn, đi coi một chút.
Hôm nay đúng là xui xẻo. Đang đứng chen chúc xem náo nhiệt, bỗng có ai vỗ vai ta từ đằng sau. Quay lại thấy hai cô nương khoác tay nhau, một người trông quen lắm. Chưa kịp nhớ ra ai, nàng kia đã reo lên:
“Thạch cô nương, lâu rồi không thấy cô bày hàng! Hôm trước muội mua chiếc trâm gỗ đào của cô, muội muội ta thích quá, cứ đòi mua thêm, khi nào cô bán nữa?”
Nghe câu ấy, ta lạnh toát sống lưng. Vội kiếm cớ lấp liếm, dỗ dành hai cô đi, rồi quay lại thì Nhị thiếu gia đang nheo mắt nhìn ta cười, ra vẻ hiểu biết:
“Thạch cô nương? Trâm gỗ đào? Tiểu Thập Lục, ta vẫn tưởng ngươi thật thà nhất phủ, hóa ra ngươi còn có tiếng tăm, có cả ‘sản nghiệp’ ngoài kia cơ à?”
Ta suýt rơi nước mắt, xung quanh người đông nên không thể quỳ xuống cầu xin.
“Nô tỳ… chuyện này dài lắm…”
Hắn cười láu lỉnh:
“Không sao, thời gian của ta cũng đủ.”
Đành thú nhận mọi chuyện. Cuối cùng, ta rầu rĩ:
“Nhị thiếu gia, số tiền ấy đâu vào tay nô tỳ, trước kia đều mua thức ăn, dạo này không cần mua nữa, ta vẫn giữ nguyên, chưa xài đồng nào.”
Hắn gật gù:
“Ta tin, nhưng nói với ta chẳng ích gì. Bây giờ người nắm quyền trong phủ là đại ca, quan trọng là hắn có tin ngươi không.”
Ta ủ rũ cụp mắt, nghĩ chắc vẫn phải báo cáo Đại thiếu gia ư?
Đúng lúc đang thất thần, hắn cười nói tiếp:
“Nếu muốn ta đừng kể với đại ca thì cũng được, lần sau bày hàng nhớ gọi ta theo. Ta chưa thử ngồi sạp bán hàng bao giờ.”
Hắn đặt một tay lên cằm ngẫm nghĩ, chợt vỗ tay:
“Nói gì thì nói, hôm nay cứ ‘làm liều’ luôn đi.”
Ta sửng sốt:
“Hả?”
Nhị thiếu gia đẩy nhẹ sau lưng ta:
“Còn ngớ ra gì nữa, mau về lấy trâm.”
Có lẽ trời Tết người đông, cộng thêm Nhị thiếu gia diện mạo nổi bật, lại ăn nói dẻo miệng nên đám đông kéo đến mua ầm ầm. Từ khi ta lén bán trâm đến giờ, chưa khi nào buôn may bán đắt như hôm nay. Hắn phụ trách mời chào, ta thu tiền thối tiền, bận rộn đến nỗi mặt nóng bừng.
Chỉ trong một buổi chiều đã bán hết sạch, tính sơ được hơn ba lượng bạc. Gộp với chỗ để dành từ trước, tổng cộng được năm lượng.
Nhị thiếu gia ghé vào tửu lầu gần đó đổi mấy đồng vụn thành một nén bạc, một tay dắt ngựa, tay kia tung hứng nén bạc trong lòng bàn tay, cười đắc ý.
Về tới cổng phủ, hắn trả lại năm lượng cho ta.
Ta thấp thỏm, chỉ sợ hắn đi mách Đại thiếu gia. Cứ suy nghĩ không yên, rốt cuộc phải mở miệng:
“Nhị thiếu gia… ngài sẽ… nói với đại ca sao?”
Nhị thiếu gia duỗi cánh tay, dường như chẳng nghe thấy, vừa đi vừa than:
“Ai chà, hôm nay cưỡi ngựa nhiều, tay chân rã rời. Tối ta muốn ăn sườn xào chua ngọt.”
Ta quýnh quáng gọi nhỏ:
“Nhị thiếu gia, Nhị thiếu gia?”
Nhưng chân hắn dài, chỉ vài bước đã bỏ ta lại sau.
Trời ơi, đúng là con người khó lường…!
10.
Qua kỳ cuối năm, người của phủ Vĩnh Xương Bá ghé đến.
Ta biết, Đại thiếu gia và đích tiểu thư phủ Vĩnh Xương Bá vốn có hôn ước.
Nếu Đại thiếu gia không gặp biến cố, giờ này hẳn đã thành thân rồi.
Đại thiếu gia cùng người phủ Vĩnh Xương Bá thảo luận rất lâu trong chính sảnh. Lúc ta mang trà vào, không dám ngẩng đầu, chỉ nghe loáng thoáng mấy câu như “Ngũ tiểu thư”, “Ba Lăng”, “gửi thư”…
Ta nhớ Thôi Cửu từng nói, đích tiểu thư phủ Vĩnh Xương Bá xếp thứ ba trong nhà.
Ta thầm thở dài, rốt cuộc Thôi Cửu cũng đoán đúng.
Khi Kiếm Như tiễn khách ra, Nhị thiếu gia chặn họ lại nơi hàng hiên.
Hắn gọi một tiếng: “Trần thế bá.”
Vị trung niên nọ dừng bước, nhận ra Nhị thiếu gia thì gương mặt thoáng hiện nụ cười.
“Ồ, Lăng Nhi đấy à, đã lâu không gặp, càng lớn càng tuấn tú phong nhã.”
Nhưng Nhị thiếu gia chẳng tỏ vẻ thân thiện, đứng khuất dưới bóng hiên, khí thế lạnh lùng hệt thanh kiếm đang chực rút khỏi vỏ.
“Phiền Trần thế bá chuyển lời đến lão gia phủ các người: ba mươi năm Hà Đông, ba mươi năm Hà Tây, thế sự xoay vần, chớ xem thường Ngụy gia.”
Lời này quá ư thẳng thừng, Trần thế bá nghe xong mặt cũng sa sầm.
Không khí đang căng thẳng, bỗng một giọng nói trầm ổn vang lên sau lưng:
“Ngụy Lăng, đừng vô lễ.”
Quay đầu lại, không biết từ lúc nào Đại thiếu gia cũng ra hiên.
Hắn đứng chắp tay, vạt áo khẽ bay theo gió, khó đoán sắc vui hay buồn.
Nhị thiếu gia toát ra vẻ lạnh lẽo, song cuối cùng vẫn nể lời Đại thiếu gia. Hắn lặng im vài giây, rồi ôm quyền chào Trần thế bá, sau đó quay người bỏ đi.
Bữa tối hôm ấy ai nấy đều có tâm sự, chẳng người nào ăn ngon.
Riêng Nhị thiếu gia không thấy bóng dáng, ta tìm khắp nơi không gặp, chẳng biết hắn đã lẻn khỏi phủ lúc nào.
Tối đến, sợ Đại thiếu gia bụng đói, ta nấu một bát chè ngọt mang tới.
Trong phòng leo lét ánh đèn, Đại thiếu gia cầm hờ cuốn sách, nửa người tựa lên chiếc xe lăn — theo ta biết, từ khi vết thương đỡ, hắn không dùng xe lăn nữa, nay không rõ sao lại ngồi lên.
Ta để chè xuống, trước lúc lui ra không nhịn được bảo:
“Đại thiếu gia, đèn tối quá, ngài coi chừng hại mắt ạ.”
Hắn liếc nhìn ta, đưa ngón tay gõ nhẹ lên tay vịn.
Hễ thấy Đại thiếu gia gõ gõ thế này là ta biết tâm trạng hắn đang không tốt. Mặt hắn dù thoáng nét cười, nhưng hễ buồn phiền là lại gõ lên thứ gì cạnh mình.
Thật ra, ta có nhìn ra cũng vô ích. Khách phủ Vĩnh Xương Bá đến bàn chuyện kia, dùng đầu ngón chân cũng đoán được tâm trạng Đại thiếu gia chẳng thể nào vui.
Hắn lại gõ mấy cái nữa, mãi mới cất lời:
“Thập Lục, trong mắt ngươi, ta đã trở thành kẻ phế nhân rồi đúng không?”
Ta vội nói:
“Sao có thể chứ? Ngài đừng nghĩ ngợi, phủ Vĩnh Xương Bá họ không ra gì, sau này mình không qua lại với họ nữa!”
Đại thiếu gia đặt tay lên đầu gối bên phải, cười đắng chát:
“Ta thực sự phế rồi. Chân này e không phục hồi nổi.”
“Xì, ngài nói bậy bạ gì thế. Có thể giờ chưa lành hẳn, cứ tiếp tục điều trị, nhất định sẽ khỏe. Trong thiên hạ còn biết bao danh y, sao lại không chữa được?”
“Không cần ngươi an ủi ta. Phế nghĩa là phế, ta tự biết rõ.”
Rất ít khi thấy Đại thiếu gia tỏ vẻ cô quạnh và chua xót thế, nhìn như có hàng trăm mũi kim châm vào tim ta.
Ta do dự, rốt cuộc đành nói thật lòng — điều mà đáng ra không nên nói.
“Nô tỳ nghe nhiều người bảo trước kia Đại thiếu gia thật sự xuất chúng, chỉ tiếc nô tỳ đến muộn nên chưa kịp thấy phong thái lẫy lừng của ngài. Ngày đầu ta gặp ngài, ngài đã bị thương, nhưng dù chân có tật cũng chẳng ảnh hưởng gì đến việc ta tôn kính, ngưỡng mộ, yêu mến ngài. Ngài vốn hiền từ, chưa từng quát nạt chúng nô tỳ, còn luôn nghĩ cho người khác, không để ta ăn đồ thừa, cho ta bạc mua áo mới. Một chủ tử tốt như thế, đâu dễ kiếm được? Đại thiếu gia của ta uyên bác như biển, Hoàng thượng dù bẻ gãy hai chân ngài cũng chẳng thể hủy hoại trí tuệ, càng không bẻ được cốt cách của ngài. Làm sao gọi là vô dụng! Trong mắt nô tỳ, ngài là người tuyệt nhất trên đời.”
Đại thiếu gia chăm chú nhìn ta hồi lâu, rồi bỗng khẽ nhếch môi cười:
“Nha đầu ngốc, thế ngươi có biết vì cớ gì ta bị đình trượng không?”
Hả?
Chuyện tày đình ấy, ta sao tường tận cho được.
Đôi mắt hắn phảng phất ký ức xa xăm:
“Chứ ngươi tưởng ta thực sự phạm sai lầm à? Thực ra hôm ấy ở trên triều, ta làm gì nói gì cũng không thay đổi được. Thánh thượng hiểu ta quá rõ, không chỉ bãi chức, mà còn phải khiến ta mất hết mặt mũi trước quần thần, triệt hạ ý chí của ta. Cách chức thôi thì ta vẫn coi là chuyện nhỏ, chi bằng đánh ta một trận để ta biết rõ… Ha, Thái tử sau này nếu dùng lại ta, ắt ta phải cảm kích hết lòng. Một đòn ‘rút củi đáy nồi’, vừa làm suy yếu thế lực Thái tử, lại chuẩn bị cho tương lai khi Thái tử lên ngôi có thể ung dung triệu ta về, và ta lại một lòng trung thành. Trước kia đường ta đi bằng phẳng quá, có phần ngạo mạn, Bệ hạ cố tình dạy cho ta hiểu: làm quan không chỉ dựa vào tài cán, mà còn phải biết cúi đầu trước quyền lực. Một mũi tên trúng ba đích, thật đúng là… nghệ thuật đế vương.”
Vừa nói, hắn vừa mở bàn tay, ngắm nghía đường chỉ tay dưới ánh đèn, nét mặt toát ra vẻ lạnh tanh.
Nghe đến đó, ta ngây người. Dù Đại thiếu gia hé lộ việc cơ mật, ta chỉ cảm giác tim đập thình thịch, tay chân lạnh toát, suýt đứng không vững.
Hóa ra, không phải hắn lỡ lời khiến vua giận, mà đây là mưu lược chốn triều đình, nguy hiểm hơn cả chiến trường trăm vạn binh.
Một lúc lâu sau ta mới lắp bắp:
“Vậy… Đại thiếu gia tính sao?”
Hắn cười nhạt, hàng mi đậm đen tuyền, vẫn giữ khí chất thư sinh cao quý, nhưng quanh người lại thoảng ra hơi lạnh sắc lẹm.
Trong phòng chỉ có một ngọn đèn sắp tàn, lập lòe hai cái rồi tắt phụt.
Hắn như sực tỉnh, giơ tay vẫy ta lại gần, khẽ vuốt tóc ta, giọng hờ hững:
“Việc ấy không phải thứ ngươi cần bận tâm. Khuya rồi, lui về nghỉ đi.”
Làm sao ta chợp mắt được. Nhưng hắn đã đuổi, ta chỉ đành về phòng.
Trên giường, ta trằn trọc tới sáng, lòng cứ nghĩ đến lời hắn: tương lai Thái tử lên ngôi, nhất định sẽ dùng đến hắn… Nghe thì như thấy đường đang trải sẵn, nhưng lại cay đắng biết bao. Kiểu bị ép bán, mà còn phải biết ơn người mua sao?
Đang miên man, trời đã hửng. Ta ngồi dậy xách thân mệt mỏi đi nấu cháo.
Hôm ấy, Đại thiếu gia đem Kiếm Như đến phủ Vĩnh Xương Bá để dứt khoát từ hôn.
Theo lý, chuyện hôn ước vốn do bề trên hai nhà quyết định, đáng ra phải có trưởng bối Ngụy gia đứng ra. Nhưng phủ Vĩnh Xương Bá đã bất kính trước, phu nhân lại vắng nhà, chẳng ai trách Đại thiếu gia thất lễ.
Ta tiễn hắn đi, trong bụng không dễ chịu. Từ lúc bị đình trượng đến nay, lần đầu hắn rời cổng phủ, vậy mà mục đích là… từ hôn.
Tới khi về, mặt Kiếm Như tối sầm, canh thiếp cưới cũng hoàn trả.
Còn Đại thiếu gia vẫn điềm tĩnh, không thể hiện gì.
Nhị thiếu gia khoanh tay lạnh lùng:
“Bỏ ắt phải bỏ. Cô tiểu thư cao cao tại thượng đó vốn xem thường Ngụy gia, nếu thật cưới nàng về làm đại tẩu, e ngày nào nàng cũng khóc loạn, còn đòi thắt cổ.”
Đại thiếu gia trừng mắt ý bảo hắn đừng quá lời.
Nhị thiếu gia nhún vai chẳng kiêng nể:
“Nói gì mà không được? Phủ Vĩnh Xương Bá có gan ức hiếp kẻ dưới, chẳng lẽ người ngoài không được nói?”
“Ngụy Lăng—”
Thấy hai anh em căng như dây đàn, ta luýnh quýnh chen vào hòa giải:
“À, Đại thiếu gia này, trên đường về, ngài có bắt gặp bà cụ bán kẹo hồ lô giọng như sấm không ạ?”
Kiếm Như lẩm bẩm:
“Tâm trạng nào mà để ý?”
Không ngờ Đại thiếu gia nghĩ thoáng, khóe môi dần nở nụ cười:
“Có, giọng bà cụ vang thật, trông khỏe khoắn nữa.”
“Thế thì tốt quá, lần sau có dịp ra ngoài mình mua vài xâu về, mấy hôm rồi chẳng được ăn, ta thèm ghê. À, còn một bà bán canh lòng dê nữa, muộn chút là hết, tiết trời xuân se lạnh mà ăn canh lòng dê ngon lắm… Hay chính mình hầm nồi canh dê tại phủ cũng hay. Các thiếu gia, giúp Thập Lục một tay được không?”
Nhị thiếu gia nhìn ta như gặp chuyện lạ:
“Gia từ bé đến giờ chưa bao giờ bước vào bếp.”
“Thì vừa hay hôm nay Nhị thiếu gia thử một lần. Đi nào, người một nhà, cùng nấu mới vui.”
Vừa nói, ta vừa đẩy nhẹ cả hai khỏi sảnh, như chăn một đàn vịt.
Ngoài trời nắng rực, sắc mặt Nhị thiếu gia bớt căng, chỉ là vẫn không cam tâm, cúi đầu giễu ta:
“Nha đầu này ghê thật, dám hò hét sai phái gia.”
Ta nghênh cằm:
“Sao gọi sai phái? Đây là ‘lấy giúp người làm niềm vui’. Thứ nhất ta có một mình đâu nấu nổi nồi canh lớn, các thiếu gia xuất đao tương trợ, ta mang ơn trong dạ.”
Nhị thiếu gia hừ khẽ:
“Miệng lưỡi ghê nhỉ.”
Ta quay sang Đại thiếu gia:
“Chủ tử, ngài xem, hắn nói ta thế có được không?”
Ánh dương long lanh trong mắt Đại thiếu gia như vì sao, hắn mỉm cười, đưa tay xoa đầu ta, rồi hờ trách:
“Đúng là tiểu quỷ nghịch ngợm.”